Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh)

 
Phần 1: Tác giả

I. Vài nét về tiểu sử

Tác giả Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 tại làng Sen, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Khi còn nhỏ, tác giả học chữ Hán ở nhà, sau đó học tại trường Quốc học Huế, tác giả có dạy học một thời gian tại trường Dục Thanh (Phan Thiết).

Năm 1911, tác giả ra nườc ngoài tìm đường cứu nước, năm 1919, tác giả gửi tới Hội nghị hòa bình ở Véc-xay (Pháp) bản yêu sách của nhân dân An Nam.

Năm 1920, tác giả dự đại hội Tua và là một trong những thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.

Từ năm 1923 – 1941, tác giả hoạt động chủ yếu ở nước ngoài (Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan). Năm 1925, tác giả tham gia Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông và chủ trì hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước tại Hồng Kông để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tháng 2.1941, tác giả về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Năm 1942, tác giả bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ và giam cầm trong thời gian 13 tháng. Sau khi ra tù, tác giả về nước lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

Ngày 2/9/1945, tác giả đọc Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh là chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1946 đến khi từ trần (ngày 2/9/1969).

II. Sự nghiệp văn học

1. Quan điểm sáng tác

Hồ Chí Minh là tác giả của nhiều tác phẩm văn học thuộc nhiều thể loại, sự nghiệp văn thơ của Hồ Chí Minh là di sản vô giá, gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp cách mạng của tác giả. Văn học đã trở thành vũ khí phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

a). Hồ Chí Minh coi văn học là vũ khí chiến đấu phục vụ sự nghiệp cách mạng, nhà văn cũng phải có tinh thần xung phong như người chiến sĩ, tác giả coi văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận.

b). Hồ Chí Minh rất coi trọng tính chân thật và tính dân tộc của văn học, theo tác giả, nhà văn phải miêu tả hay, chân thật và hùng hồn hiện thực phong phú; phải giữ tình cảm chân thật, đề cao sự sáng tạo nhưng chú ý cốt cách dân tộc và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

c). Khi sáng tác, tác giả luôn chú trọng mục đích đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung và hình thức thể hiện. Vì thế những tác phẩm của tác giả đều mang tư tưởng sâu sắc, nội dung thiết thực và hình thức nghệ thuật sinh động, đa dạng.

2. Di sản văn học

a) Văn chính luận

Với văn phong độc đáo, đa dạng nhưng súc tích, văn chính luận của tác giả rất ngắn gọn nhưng lập luận sắc sảo, chặt chẽ, giàu sức thuyết phục và đa dạng về bút pháp.

Những tác phẩm chính luận gồm: những bài báo bằng tiếng Pháp đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống thợ thuyền. Tác phẩm tiêu biểu nhất là Bản án chế độ thực dân Pháp; Tuyên ngôn Độc lập; Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946); Không có gì quý hơn độc lập, tự do (1968).

Những văn kiện quan trọng được viết với văn phong hào sảng, tha thiết biểu đạt qua những lời văn chặt chẽ, súc tích.

b) Truyện và kí

Những tác phẩm thuộc thể loại truyện và kí của tác giả mang tính hiện đại, có tính chiến đấu rất mạnh mẽ cộng thêm nghệ thuật trào phúng sắc bén.

Những tác phẩm truyện và kí tiêu biểu gồm: Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Vi hành, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu, Nhật kí chìm tàu, Vừa đi đường vừa kể chuyện.

c). Thơ ca

Những tác phẩm thơ của tác giả là sự kết hợp giữa bút pháp cổ điển với bút pháp hiện đại; giữa chất trữ tình và sự mạnh mẽ; giữa sự trong sáng, giản dị nhưng lại rất hàm súc và sâu sắc.

Hồ Chí Minh là tác giả của những tác phẩm thơ nổi tiếng như: Nhật kí trong tù, Tức cảnh Pác Bó, Rằng tháng riêng, Tin thắng trận, Cảnh khuya

3. Phong cách nghệ thuật

Dù viết nhiều thể loại nhưng phong cách chung của tác giả là độc đáo, đa dạng.

Văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lời lẽ đanh thép, bằng chứng đầy thuyết phục. Những tác phẩm truyện và kí mang tính hiện đại, có tính chiến đấu rất mạnh mẽ cộng thêm nghệ thuật trào phúng sắc bén, tuy nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng thâm thúy, sâu cay.

Thơ ca tuyên truyền mang tính giản dị, mộc mạc, dễ nhớ kết hợp với màu sắc dân gian hiện đại; thơ nghệ thuật thì kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển với bút pháp hiện đại.

III. Kết luận

Văn thơ Hồ Chí Minh là di sản vô giá, gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp cách mạng của tác giả. Văn thơ của tác giả có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học và đời sống tinh thần của dân tộc. Những tác phẩm văn học của Hồ Chí Minh thể hiện chân thật và sâu sắc tư tưởng, tình cảm và tâm hồn của tác giả..

Phần 2: Tác phẩm

I. Tiểu dẫn

Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền trên toàn quốc.

Ngày 26/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ khiến khu Việt Bắc về Hà Nội và soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang.

Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, trước hàng vạn đồng bào, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam.

Bản Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện có giá trị lịch sử, là lời tuyên bố xóabỏ chế độ thực dân, phong kiến, khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng của Việt Nam trên thế giới.

Đây là tác phẩm chính luận với cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực, ngôn ngữ hùng hồn, đầy cảm xúc. Tác phẩm thể hiện được vẻ đẹp của tư tưởng, tâm hồn tác giả và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.

Bản Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận mẫu mực, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh. Bằng nghệ thuật lập luận, lí lẽ đanh thép, tác giả đã vạch trần tội ác của thực dân Pháp trong hơn 80 năm xâm lược Việt Nam và ngăn chặn âm mưu tái chiếm nước ta của các thế lực thù địch cùng các phe nhóm cơ hội quốc tế. Bên cạnh đó, tác phẩm còn bộc lộ tình cảm yêu nước, thương dân và khát vọng độc lập, tự do của tác giả và của dân tộc Việt Nam.

Những lập luận, lí lẽ, giọng điệu trong lời tuyên ngôn độc lập đã biểu hiện ý chí kiên cường và quyết tâm bảo vệ nền độc lập của đất nước, dân tộc Việt Nam trước thực dân Pháp và các thế lực thù địch.

Văn bản (SGK)