Bài 17: Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên
1. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ năm 1258.
- Năm 1257, Mông Cổ đã cho quân áp sát biên giới Đại Việt rồi ba lần cử sứ giả đến Thăng Long dụ hàng. Vua Trần Thái Tông cho bắt giam sứ giả, đồng thời ra lệnh cả nước ra sức tập luyện, chuẩn bị vũ khí, sẵn sàng đánh giặc.
- Đầu tháng 1/1258, Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy 3 vạn quân Mông Cổ tiến vào Đại Việt.
+ Ngày 17/1/1258, vua Trần Thái Tông trực tiếp chỉ huy chặn giặc ở Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phúc). Trận đánh diễn ra quyết liệt. Quân Trần chủ động rút lui để bảo toàn lực lượng. Nhà Trần quyết định rút khỏi Thăng Long, thực hiện kế sách “vườn không nhà trống”. Quân mông Cổ chỉ chiếm được thành Thăng Long trống rỗng nên lâm vào tình thế khó khăn.
+ Ngày 29/1/1258, quân Trần tổ chức tấn công lớn ở Đông Bộ Đầu (Hà Nội). Quân Mông Cổ thua trận rút chạy. Cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi.
2. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên năm 1285.
- Năm 1271, Hốt Tất Liệt lập ra nhà Nguyên. Năm 1279, sau khi chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc, nhà Nguyên tập trung lực lượng, ráo riết chuẩn bị xâm lược Đại Việt.
- Trước tình hình đó, vua Trần triệu tập hội nghị Bình Than (Bắc Ninh) năm 1282, hội nghị Diên Hồng (Thăng Long) năm 1285 để bàn kế sách đánh giặc. Trần Quốc Tuấn được cử làm Quốc công tiết chế - Tổng chỉ huy các lực lượng kháng chiến. Trước trận chiến, để động viên khích lệ tinh thần chiến đấu của binh lính, Hưng Đạo Vương đã viết Hịch tướng sĩ.
- Cuối tháng 1/1285, Thoát Hoan dẫn 50 vạn quân từ phía bắc, Toa Đô dẫn 10 vạn quân từ phía nam (Chăm-pa) tấn công Đại Việt. Trước thế giặc mạnh, quân Trần lui quân về Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải Dương). Vua tôi nhà Trần tiếp tục thực hiện kế sách “vườn không nhà trống”, rút từ Thăng Long về Thiên Trường (Nam Định).
- Tháng 5/1285, quân Trần phản công, đánh bại quân địch ở Tây Kết, Hàm Tử (Hưng Yên), Chương Dương (Hà Nội), tiến về giải phóng kinh đô. Toa Đô tử trận, Thoát Hoan phải chui ống đồng, bắt quân lính khiêng chạy về nước. Cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi.
3. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên năm 1287 - 1288.
- Sau hai lần thất bại ở Đại Việt, vua Nguyên tiếp tục cử Thoát Hoan xâm lược Đại Việt một lần nữa. Đoán được dã tâm và ý đồ xâm lược của kẻ thù, quân dân nhà Trần lại khẩn trương chuẩn bị kháng chiến.
- Tháng 12/1287, 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy theo đường bộ tiến vào Đại Việt, hơn 600 chiến thuyền do Ô Mã Nhi chỉ huy theo đường thủy tiến vào vùng biển Đông Bắc. Tiếp theo sau là đoàn thuyền lương. Tại Vân Đồn, Trần Khánh Dư chỉ huy quân Trần phục kích và đánh tan đoàn thuyền lương của quân Nguyên. Quân Nguyên chiếm được thành Thăng Long “vườn không nhà trống” nên ngày càng lâm vào thế khó khăn. Đường cùng, Thoát Hoan quyết định rút quân về nước.
- Tháng 4/1288, Trần Quốc Tuấn bố trí trận địa mai phục trên sông Bạch Đằng. Toàn bộ cánh quân thủy của địch bị tiêu diệt. Ô Mã Nhi bị bắt sống. Cánh quân của Thoát Hoan trên đường rút chạy cũng bị truy đuổi quyết liệt. Cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi.
4. Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên.
- Nguyên nhân thắng lợi:
+ Thắng lợi của ba lần kháng chiến chống quân Mông – Nguyên trước hết là kết quả của sự đoàn kết toàn dân, trên dưới một lòng cùng tham gia đánh giặc.
+ Nhà Trần đề ra kế sách đánh giặc đúng đắn, sáng tạo, biết phát huy truyền thống đánh giặc của cha ông “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”, “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu”…
+ Tài năng thao lược của các vua Trần cùng các danh tướng như Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, đặc biệt là Trần Quốc Tuấn đã góp phần làm nên thắng lợi này.
- Ý nghĩa lịch sử:
+ Thắng lợi của ba lần kháng chiến chống quân Mông – Nguyên của quân dân Đại Việt đã đập tan tham vọng, ý chí xâm lược của quân Mông – Nguyên, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, mở ra nền thái bình hơn một thế kỉ cho Đại Việt. Chiến thắng này góp phần quyết định chặn đứng làn sóng xâm lược của quân Mông – Nguyên đối với Nhật Bản và các nước Đông Nam Á.
+ Thắng lợi này đã khẳng định tinh thần quật cường, khí phách của một dân tộc không chịu khuất phục trước bất kì kẻ thù nào và để lại nhiều bài học lịch sử quý giá về xây dựng khối đoàn kết quân dân trong công cuộc đấu tranh và bảo vệ Tổ quốc.
- Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có vai trò như thế nào đối với triều đại nhà Trần và lịch sử dân tộc thế kỉ XIII?
Trần Quốc Tuấn là người chủ động giải quyết những bất hòa trong nội bộ vương triều, góp công lớn ba lần đánh bại quân Mông - Nguyên. Ông là tác giả của hai bộ binh thư và bài Hịch tướng sĩ.
LUYỆN TẬP – VẬN DỤNG
Luyện tập
1. Từ thông tin trong bài, em hãy điền các trận đánh tiêu biểu vào các ô trống tương ứng với từng cuộc kháng chiến.
2. Từ kiến thức đã học, em hãy đánh giá vai trò của Trần Thủ Độ và Trần Hưng Đạo trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông - Nguyên.
- Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ năm 1258, trước thế giặc mạnh, vua Trần Thái Tông hỏi về kế đánh giặc, Trần Thủ Độ đã trả lời: “Đầu thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo gì khác”.
- Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên năm 1285, Trần Quốc Tuấn là tổng chỉ các lực lượng kháng chiến. Ông là người khích lệ tinh thần các chiến sĩ và đưa ra những kế sách đúng đắn, góp phần to lớn vào thắng lợi của các cuộc kháng chiến.
Vận dụng
3. Theo em, nhân tố quyết định tạo nên chiến thắng trong các cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên là gì? Nhân tố đó được kế thừa và phát huy như thế nào trong thời bình?
- Nhân tố tạo nên chiến thắng trông các cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên là tinh thần yêu nước, sự đoàn kết của toàn dân tộc cùng với sự tài ba của người chỉ huy.
- Trong thời bình, nhân tố đó được kế thừa và phát huy thông qua sự đoàn kết của toàn dân, cùng phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Đảng và Nhà nước đã áp dụng những chính sách phù hợp để đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân.